Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2016

Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm an toàn thực phẩm ở Việt Nam hiện nay


I.    KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM VÀ PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM AN TOÀN THỰC PHẨM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người[1]. Từ đây, có thể hiểu theo nghĩa hẹp đó là việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra. An toàn thực phẩm cũng bao gồm các quy trình, quy định áp dụng trong từng khâu chế biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ sức khỏe có tiềm năng nghiêm trọng. Hiểu theo nghĩa rộng, đảm bảo an toàn thực phẩm là toàn bộ những vấn đề cần xử lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm bảo cho sức khỏe của người tiêu dùng. Đây là một vấn đề và nguy cơ rất lớn mà rất nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt.
Về pháp luật bảo đảm ATTP ở Việt Nam, đó là một bộ phận trong hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta, bao gồm các QPPL do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm an toàn thực phẩm; điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm, sản xuất, kinh doanh thực phẩm và nhập khẩu, xuất khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm; phân tích nguy cơ đối với ATTP; phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố về ATTP; thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP; trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP[2]. Nguồn chính của pháp luật bảo đảm ATTP đều là các văn bản QPPL do nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục nhất định.
Trong pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề bảo đảm an toàn thực phẩm, tiêu biểu phải kể đến Luật an toàn thực phẩm do Quốc hội ban hành năm 2010 gồm 11 chương và 70 điều quy định một cách toàn diện về vấn đề an toàn thực phẩm. Cùng với đó là các văn bản QPPL do Chính phủ và các bộ ngành ban hành như : Nghị định số 38/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm năm 2010; Thông tư liên tịch số 13/2014/TLT-BYT-BNNPTNT-BCT hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm …
II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC BẢO ĐẢM AN TOÀN THỰC PHẨM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
 Hệ thống pháp luật đã bảo đảm ATTP bằng việc thể chế hóa các chính sách, kế hoạch của Đảng, nhà nước trong công tác bảo đảm ATTP và quy định các phương tiện, biện pháp, nhân lực,... để đảm bảo thực hiện các chính sách, kế hoạch đó. Chính vì thế, pháp luật trong việc bảo đảm ATTP đã trở thành một công cụ hữu hiệu để quản lý lĩnh vực này. Đặc biệt, thời gian qua pháp luật về bảo đảm ATTP ở nước ta đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện, góp phần điểu chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực thực phẩm. Nhìn chung có thể đánh giá vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm ATTP ở Việt Nam hiện nay qua những mặt như sau.

1. Pháp luật quy định các quy tắc xử sự chung cho mọi người trong những hoạt động ở lĩnh vực thực phẩm
Về mặt này, pháp luật điều chỉnh khá đầy đủ những hành vi, hoạt động liên quan đến điều kiện đảm bảo ATTP; điều kiện đảm bảo chất lượng trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm; xuất – nhập khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn sản phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm, phân tích nguy cơ đối với ATTP, phòng ngừa ngăn chặn và khắc phục sự cố về ATTP; đưa ra những hành vi bị cấm.
Ví dụ trong Luật an toàn thực phẩm năm 2010 đã có những quy định như : Khoản 1 Điều 10 về điều kiện chung để đảm bảo an toàn đối với thực phẩm là “đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về giới hạn vi sinh vật gây bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng thuốc thú y, kim loại nặng, tác nhân gây ô nhiễm và các chất khác trong thực phẩm có thể gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người”; Điều 43 quy định về Quảng cáo thực phẩm là “Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định cụ thể loại thực phẩm phải đăng ký quảng cáo, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xác nhận nội dung quảng cáo thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý”; Điều 5 quy định những hành vi bị nghiêm cấm trong việc bảo đảm an toàn thực phẩm; …
2. Pháp luật quy định các chế tài ràng buộc con người thực hiện những yêu cầu của pháp luật để đảm bảo ATTP
Trong thực tế các chủ thể khi tham gia hoạt động kinh doanh, sản xuất thực phẩm thường chỉ chú ý tới lợi ích của mình mà bỏ qua lợi ích của người khác, của chung cộng đồng, bỏ qua hoặc không tự giác thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm phải thực hiện với việc bảo đảm ATTP. Chẳng hạn, khi thực hiện nghĩa vụ đánh giá thực phẩm tiêu chuẩn, các chủ sản xuất kinh doanh thường không thấy trước được lợi ích của mình do đó luôn tìm cách lẩn tránh nghĩa vụ pháp lý với thực phẩm. Khi đó, chế tài mà pháp luật quy định đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của chính tổ chức, cá nhân và lợi ích chung lâu dài của xã hội. Các chế tài đó không chỉ là biện pháp trừng phạt vi phạm pháp luật bảo đảm ATTP; ngăn ngừa, giáo dục cải tạo chủ thể vi phạm mà còn răn đe chủ thể khác để họ tự giác tuân theo các quy phạm pháp luật, qua đó ngăn ngừa và hạn chế những hành động sai trái tác động đến chất lượng thực phẩm.
Ví dụ, Khoản 1 Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi năm 2009) quy định “Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”; …
3. Pháp luật quy định các tiêu chuẩn bảo đảm ATTP, đồng thời công nhận những thực phẩm đạt chuẩn bảo đảm an toàn
Nhằm đánh giá được mức độ bảo đảm an toàn cho thực phẩm trước khi đến tay người tiêu dùng, pháp luật Việt Nam hiện nay đã đặt ra những tiêu chuẩn nhất định cho thực phẩm và cả quá trình chế biến, phân phối thực phẩm an toàn. Những tiêu chuẩn này thường do Bộ Y tế ban hành và được gọi là các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia ATTP. Cụ thể, những quy chuẩn này quy định cho các vấn đề của thực phẩm an toàn như sau :
-            Nước uống, nước sinh hoạt (ví dụ: Thông tư số 04/2009/TT-BYT ngày 16/06/2009 ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống);
-            Nước đá dùng liền (ví dụ: QCVN 10:2011/BYT – “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với nước đá dùng liền” ngày 13/01/2011);
-            Nước khoáng thiên nhiên, nước uống đóng chai, đồ uống không cồn và đồ uống có cồn  (ví dụ: Thông tư số 45/2010/TT-BYT ngày 22/12/2010 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm đồ uống có cồn);
-            Sữa và các sản phẩm từ sữa (ví dụ: Thông tư số 41/2010/TT-BYT ngày 18/11/2010 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm sữa lên men);
-            Sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ (ví dụ: QCVN 11-4:2012/BYT Quy chuẩn quốc gia đối với sản phẩm dinh dưỡng chế biến từ ngũ cốc cho trẻ từ 6 đến 36 tháng tuổi);
-            Các chất được sử dụng để bổ sung vào thực phẩm (ví dụ: QCVN 3-6:2011/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các chất được sử dụng để bổ sung Iod vào thực phẩm);
-            Thực phẩm bổ sung vi chất dinh dưỡng (ví dụ: Thông tư số 04/2011/TT-BYT ngày 13/01/2011 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với thực phẩm bổ sung vi chất dinh dưỡng);
-            Giới hạn ô nhiễm sinh học và hoá học trong thực phẩm (ví dụ: QCVN 8-2:2011/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm);
-            Phụ gia thực phẩm (ví dụ: QCVN 4-22:2010/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phụ gia thực phẩm – Nhóm chất nhũ hóa);
-            Bao bì, dụng cụ tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm (ví dụ: Thông tư số 34/2011/TT-BYT ngày 30/8/2011 của Bộ Y tế ban hành các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn vệ sinh đối với bao bì, dụng cụ tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm).
Nhờ đặt ra những quy chuẩn này, việc đánh giá mức độ an toàn của thực phẩm trở nên thuận tiện hơn rất nhiều. Cũng từ đó có thể công nhận danh hiệu cho những sản phẩm thực phẩm đạt chuẩn để chúng tạo dựng được niềm tin với người tiêu dùng; đẩy lùi những thực phẩm không rõ nguồn gốc, kém an toàn và có thể gây nguy hại đến sức khoẻ con người.
4. Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo đảm ATTP
Như ta đã biết, tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội đều cần phải có sự quản lý của nhà nước và thực phẩm cũng không là ngoại lệ. Hơn thế, bảo đảm ATTP còn là một hoạt động, nhiệm vụ quan trọng bởi thực phẩm là vấn đề tương đối phức tạp nên rất cần có hệ thống tổ chức quản lý phù hợp, hiệu quả.
Pháp luật Việt Nam hiện nay đã ngày càng thể hiện vai trò to lớn trong việc tạo ra cơ chế hoạt động cho các tổ chức, cơ quan bảo đảm ATTP. Cụ thể, do nhận thấy những bất cập từ việc phân công quản lý theo từng nhóm sản phẩm và quá trình được quy định trong Nghị định 38/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm 2010 do Chính phủ ban hành dẫn đến việc một doanh nghiệp phải chịu sự quản lý của nhiều bộ ngành tạo nên phiền hà, mất nhiều thời gian cũng như công sức của cả doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước; ngày 9 tháng 4 năm 2014, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương đã cùng cho ra đời “Thông tư liên tịch 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT, hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm” nhằm giảm thiểu sự chồng chéo trong công tác quản lý về an toàn thực phẩm. Vì vậy, Thông tư liên tịch 13 đã ra đời theo nguyên tắc “một sản phẩm, một cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ chịu sự quản lý của một cơ quan quản lý nhà nước”.[3]
Việc ban hành các văn bản pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, đảm bảo hoàn thành tốt công tác quản lý Nhà nước đối với bảo đảm ATTP. Nhờ sự phân chia như vậy của pháp luật đã tạo ra sự phối hợp ngày càng nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cơ quan, nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước về ATTP.
III. TỒN TẠI HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ATTP VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CÓ THỂ ĐẶT RA
1. Những tồn tại hạn chế, khó khăn vướng mắc
Bên cạnh những kết quả và thành tựu đã đạt được trong thời gian qua ở lĩnh vực bảo đảm ATTP, pháp luật Việt Nam hiện hành cũng còn rất nhiều những tồn tại hạn chế và khó khăn vướng mắc. Có thể kể đến như :
- Còn quá nhiều các quy định về quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm nói chung và kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại nói riêng gây khó khăn khi áp dụng trên thực tế.
-  Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất và hoạt động thương mại chưa đồng bộ, còn thiếu và chồng chéo.
-  Tính khả thi, cũng như tính ổn định của các văn bản quy phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm còn chưa cao, cần phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn áp dụng. Có những văn bản được các cơ quan chức năng ban hành chỉ trong một thời gian ngắn đã phải sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Do đó, đã gây khó khăn cho các chủ thể sản xuất và kinh doanh thực phẩm, cũng như công tác kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ quan nhà nước.
-  Hiện nay, hệ thống pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất và hoạt động thương mại đang thiếu những quy định chi tiết dẫn đến việc áp dụng của các chủ thể gặp không ít khó khăn.
-  Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn thực phẩm hiện còn thiếu rất nhiều, đặc biệt là đối với những thực phẩm truyền thống (các loại mắm, nem chua, tương...) và một số tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được ban hành trước đây nay cũng đã lạc hậu nhưng lại chưa được sửa đổi. Chính vì sự bất cập đó mà hiện nay nhiều doanh nghiệp thực phẩm vẫn ghi lên nhãn hàng hoá của mình các số liệu khác xa với thực tế sản xuất mà không có một chế tài kiểm soát nào.

2. Những giải pháp có thể đặt ra
Từ những bất cập nêu trên của pháp luật Việt Nam trong việc đảm bảo ATTP, có thể đánh giá được mức độ hoàn thiện của pháp luật hiện hành ở lĩnh vực này. Theo đó, một số giải pháp đã được đưa ra để thực hiện như sau :
Thứ nhất, nên rà soát lại các quy định về kiểm soát vệ sinh ATTP trong sản xuất và hoạt động thương mại.
Thứ hai, có thể sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật nhằm kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả vệ sinh an toàn thực phẩm trong tất cả các quá trình trước khi thực phẩm đến tay người tiêu dùng.
Thứ ba, cần hoàn thiện các quy định nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đảm bảo an toàn thực phẩm.
Thứ tư, tăng cường thêm nguồn lực cho hoạt động xây dựng pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất cũng như hoạt động thương mại.
Thứ năm, tăng cường hơn nữa hợp tác quốc tế tại các cửa khẩu để ngăn chặn sự xâm nhập của dịch bệnh và dịch hại, đồng thời đẩy mạnh việc ký kết các điều ước quốc tế trong lĩnh vực vệ sinh ATTP.
Cuối cùng, pháp luật cần xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về vệ sinh an toàn thực phẩm cho phù hợp hơn với thực tiễn khu vực và thế giới.


[1] Khoản 1, Điều 2 : Giải thích từ ngữ, Luật An toàn thực phẩm, do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 17/06/2010

[2] Điều 1 : Phạm vi điều chỉnh, Luật An toàn thực phẩm, do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 17/06/2010.
[3] Theo bài viết Thông tư liên tịch 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, Trang thông tin điện tử của Viện an toàn thực phẩm, ngày 01/07/2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét