Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2016

So sánh nghề Luật sư và nghề Thẩm phán ở Việt Nam

MỞ ĐẦU
Luật sư và Thẩm phán luôn là hai nghề nghiệp danh giá và rất được mọi người trong xã hội tôn trọng ở Việt Nam hay bất kỳ đâu trên thế giới. Hẳn phải có rất nhiều yếu tố để tạo nên sự cao quý của hai nghề đó. Với mong muốn được tìm hiểu kỹ hơn về hai nghề luật này, em xin chọn đề bài “Hãy so sánh nghề luật sư và nghề Thẩm phán ở Việt Nam” cho phần bài tập học kỳ của mình.
NỘI DUNG VẤN ĐỀ
I.    Khái quát chung về nghề luật sư và nghề thẩm phán ở Việt nam hiện nay
1.    Nghề luật sư
Nghề luật sư ở Việt Nam trước hết là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động trong phạm vi hành nghề theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Từ đầu năm 2014 đến 30/6/2014, đội ngũ luật sư cả nước đã tham gia hơn 70.000 vụ việc, doanh thu đạt gần 70 tỷ đồng. Trong khi đó, cả nước cũng có gần 400 luật sư và 67 tổ chức hành nghề luật sư của nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam nhưng 6 tháng đầu năm 2014 đã tham gia hơn 4.000 vụ việc, doanh thu đạt gần 700 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài hoạt động có hiệu quả hơn nhiều so với các tổ chức trong nước.[1]
Tuy đến ngày 15/9/2014 cả nước có 11.285 người được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và 3.408 tổ chức hành nghề, 63/63 tỉnh, thành phố trên cả nước đã có Đoàn luật sư, nhưng tỷ lệ số luật sư trên số dân của Việt Nam vẫn ở mức trung bình. Ở Việt Nam tỷ lệ đó là 1 luật sư/14.500 người dân, thấp hơn nhiều so với Mỹ (1/250), Singapore (1/1000), Thái Lan  (1/1200), Nhật Bản (1/4500), …
2.    Nghề thẩm phán
Nghề thẩm phán ở Việt Nam cũng là một nghề luật, hơn nữa còn là một nghề cao quý, rất danh dự. Thẩm phán mang tư cách nhân danh pháp luật của nhà nước để xét xử, ra bản án kết tội hoặc các quyết định cần thiết khác trong quá trình xét xử. Thẩm phán giữ vị trí quan trọng trong việc xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng, vì vậy bên cạnh số lượng, chất lượng của đội ngũ thẩm phán cũng như cách thức tổ chức, cơ chế vận hành và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán là yếu tố mang tính quyết định đến chất lượng xét xử.
Hiện nay cả nước có gần 5000 Thẩm phán, con số không phải là nhiều so với các sinh viên có bằng cử nhân Luật tốt nghiệp ra trường, trình độ và năng lực của các Thẩm phán hiện nay 100% có trình độ Đại học luật hoặc tương đương. Theo đánh giá hàng năm thì số Thẩm phán hoàn thành nhiệm vụ chiếm trên 90%.
Tuy nhiên, đội ngũ Thẩm phán ở Việt Nam còn chưa thực sự ổn định, chuyên nghiệp; trình độ, năng lực đã được nâng lên một mức nhưng chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ và còn nhiều bất cập, hạn chế về nhiều mặt như: tri thức về xã hội, kinh tế thị trường, trình độ ngoại ngữ và kiến thức pháp luật quốc tế phục vụ cho hội nhập quốc tế, hành chính nhà nước, kỹ năng thực thi công vụ, cũng như khả năng vận dụng khoa học công nghệ hiện đại trong hoạt động công vụ.
II. So sánh nghề luật sư và nghề thẩm phán ở Việt Nam
1.    Điểm giống nhau giữa nghề luật sư và nghề thẩm phán ở Việt Nam
Thứ nhất, luật sư và thẩm phán đều là hai nghề thuộc nhóm nghề luật.
Thứ hai, cả hai nghề này đều đã được pháp luật Việt Nam quy định rõ về tất cả các yếu tố có liên quan. Đối với nghề luật sư thì có nguồn là Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), nghề thẩm phán có nguồn là Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Thứ ba, cả nghề luật sư và nghề thẩm phán đều cần tuân theo một loại chuẩn mực đạo đức xã hội là đạo đức nghề luật.
Thứ tư, những người làm nghề luật sư hay nghề thẩm phán đều luôn phải đứng trước rất nhiều cám dỗ, nhất là trong quá trình rèn luyện đạo đức nghề luật luôn chịu sự tác động của nhiều yếu tố cả bên trong và bên ngoài.
Thứ năm, cả hai nghề ở Việt Nam đều chưa được thực sự phát triển, vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế để có thể phát huy tối đa vai trò trong bối cảnh các mối quan hệ trong và ngoài nước ngày càng được mở rộng như hiện nay.
2.    Phân biệt nghề luật sư và nghề thẩm phán ở Việt Nam
2.1.       Định nghĩa
-                    Nghề luật sư là một nghề luật do luật sư tiến hành, bằng tri thức pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp thực hiện các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan và tổ chức. Luật sư là người hành nghề tự do, không phải viên chức hay công chức nhà nước.
-                    Nghề thẩm phán là một nghề luật do thẩm phán tiến hành, được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án. Thẩm phán là một công chức nhà nước.
2.2.       Đặc điểm
-                Nghề luật sư : Một, đây là một nghề luật. Hai, do luật sư thực hiện. Ba, có tính chất dịch vụ. Bốn, có tính nhân bản sâu sắc (tính hướng dẫn và tính trợ giúp). Năm, có tính phản biện.
-                Nghề thẩm phán : Một, đây là một nghề luật. Hai, do thẩm phán thực hiện. Ba, buộc phải tiếp xúc với con người trên 2 phương diện đó là sinh tồn và sinh mệnh pháp luật. Bốn, có mục đích vừa nhận thức vừa biến đổi đối tượng. Năm, sử dụng và áp dụng pháp luật vào các mối quan hệ pháp luật phát sinh. Sáu, điều kiện lao động là quyền lực tư pháp gắn với bảo vệ thực thi pháp luật.
2.3.       Điều kiện hành nghề
-                Theo Điều 11 Luật Luật sư 2016, người có đủ tiêu chuẩn (là “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư”[2]) muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
-                Theo Khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002, “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực tiễn, có năng lực làm công tác xét xử theo quy định, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán”.
2.4.       Phạm vi hành nghề
-                Nghề luật sư có 4 phạm vi hành nghề cơ bản : Tham gia tố tụng; Đại diện ngoài tố tụng; Tư vấn pháp luật; Dịch vụ khác.
-                Nghề thẩm phán có 4 phạm vi hành nghề cơ bản : Áp dụng luật hoặc thực hiện luật để đưa ra phán quyết trong phiên toà xét xử; Nghiên cứu vấn đề theo luật pháp; Quyết định quy trình thực hiện theo luật pháp và quy tắc; Viết ý kiến, quyết định và hướng dẫn về các trường hợp, khiếu nại và tranh chấp.
2.5.       Các chuẩn mực đạo đức
-                Đạo đức nghề nghiệp của luật sư bao gồm các quy định chung về đạo đức của bản thân luật sư trong các mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng, với cơ quan nhà nước và với đồng nghiệp theo quy định của Bộ Quy tắc mẫu về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam năm 2011. Mỗi luật sư phải ý thức được sứ mệnh của mình, biết giữ gìn phẩm chất và danh dự nghề nghiệp. Tạo niềm tin và sự kính trọng từ khách hàng, từ đó tôn vinh nghề luật sư.
-                Điều 13 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 quy định: “Thẩm phán phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật”. Hơn nữa, Thẩm phán phải thực hiện đầy đủ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm” trong khi làm nhiệm vụ.
2.6.       Xử lý vi phạm
-                Luật sư vi phạm quy định của Luật Luật sư 2006, ngoài việc bị xử lý kỉ luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm (có 4 hình thức kỷ luật : Khiển trách; Cảnh cáo; Tạm đình chỉ tư cách thành viên Đoàn luật sư từ 6 tháng đến 24 tháng; Xoá tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư), còn bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.[3]
-                Thẩm phán phải “chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.[4]
LỜI KẾT
Trên đây là những tìm hiểu của em về hai nghề nghiệp luật sư và Thẩm phán ở Việt Nam. Qua đó cũng có thể thấy được hiện nay rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết để hai nghề luật cao quý này có thể phát huy tối đa vai trò quan trọng của mình, nhất là trong thời kỳ kinh tế nước ta đang trên đà hội nhập phát triển. Vì hiểu biết còn hạn chế nên vẫn còn nhiều sai sót, rất mong thầy cô cho ý kiến để bài làm của em được hoàn thiện hơn.



[2] Điều 10: Tiêu chuẩn luật sư, Luật Luật sư 2006.
[3] Theo Điều 85 và Điều 89 của Luật Luật sư năm 2006.
[4] Theo Điều 6 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét