Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2016

Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm an toàn thực phẩm ở Việt Nam hiện nay


I.    KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM VÀ PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM AN TOÀN THỰC PHẨM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người[1]. Từ đây, có thể hiểu theo nghĩa hẹp đó là việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra. An toàn thực phẩm cũng bao gồm các quy trình, quy định áp dụng trong từng khâu chế biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ sức khỏe có tiềm năng nghiêm trọng. Hiểu theo nghĩa rộng, đảm bảo an toàn thực phẩm là toàn bộ những vấn đề cần xử lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm bảo cho sức khỏe của người tiêu dùng. Đây là một vấn đề và nguy cơ rất lớn mà rất nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt.
Về pháp luật bảo đảm ATTP ở Việt Nam, đó là một bộ phận trong hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta, bao gồm các QPPL do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm an toàn thực phẩm; điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm, sản xuất, kinh doanh thực phẩm và nhập khẩu, xuất khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm; phân tích nguy cơ đối với ATTP; phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố về ATTP; thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP; trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP[2]. Nguồn chính của pháp luật bảo đảm ATTP đều là các văn bản QPPL do nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục nhất định.
Trong pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề bảo đảm an toàn thực phẩm, tiêu biểu phải kể đến Luật an toàn thực phẩm do Quốc hội ban hành năm 2010 gồm 11 chương và 70 điều quy định một cách toàn diện về vấn đề an toàn thực phẩm. Cùng với đó là các văn bản QPPL do Chính phủ và các bộ ngành ban hành như : Nghị định số 38/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm năm 2010; Thông tư liên tịch số 13/2014/TLT-BYT-BNNPTNT-BCT hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm …
II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC BẢO ĐẢM AN TOÀN THỰC PHẨM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
 Hệ thống pháp luật đã bảo đảm ATTP bằng việc thể chế hóa các chính sách, kế hoạch của Đảng, nhà nước trong công tác bảo đảm ATTP và quy định các phương tiện, biện pháp, nhân lực,... để đảm bảo thực hiện các chính sách, kế hoạch đó. Chính vì thế, pháp luật trong việc bảo đảm ATTP đã trở thành một công cụ hữu hiệu để quản lý lĩnh vực này. Đặc biệt, thời gian qua pháp luật về bảo đảm ATTP ở nước ta đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện, góp phần điểu chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực thực phẩm. Nhìn chung có thể đánh giá vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm ATTP ở Việt Nam hiện nay qua những mặt như sau.

1. Pháp luật quy định các quy tắc xử sự chung cho mọi người trong những hoạt động ở lĩnh vực thực phẩm
Về mặt này, pháp luật điều chỉnh khá đầy đủ những hành vi, hoạt động liên quan đến điều kiện đảm bảo ATTP; điều kiện đảm bảo chất lượng trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm; xuất – nhập khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn sản phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm, phân tích nguy cơ đối với ATTP, phòng ngừa ngăn chặn và khắc phục sự cố về ATTP; đưa ra những hành vi bị cấm.
Ví dụ trong Luật an toàn thực phẩm năm 2010 đã có những quy định như : Khoản 1 Điều 10 về điều kiện chung để đảm bảo an toàn đối với thực phẩm là “đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về giới hạn vi sinh vật gây bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng thuốc thú y, kim loại nặng, tác nhân gây ô nhiễm và các chất khác trong thực phẩm có thể gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người”; Điều 43 quy định về Quảng cáo thực phẩm là “Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định cụ thể loại thực phẩm phải đăng ký quảng cáo, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xác nhận nội dung quảng cáo thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý”; Điều 5 quy định những hành vi bị nghiêm cấm trong việc bảo đảm an toàn thực phẩm; …
2. Pháp luật quy định các chế tài ràng buộc con người thực hiện những yêu cầu của pháp luật để đảm bảo ATTP
Trong thực tế các chủ thể khi tham gia hoạt động kinh doanh, sản xuất thực phẩm thường chỉ chú ý tới lợi ích của mình mà bỏ qua lợi ích của người khác, của chung cộng đồng, bỏ qua hoặc không tự giác thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm phải thực hiện với việc bảo đảm ATTP. Chẳng hạn, khi thực hiện nghĩa vụ đánh giá thực phẩm tiêu chuẩn, các chủ sản xuất kinh doanh thường không thấy trước được lợi ích của mình do đó luôn tìm cách lẩn tránh nghĩa vụ pháp lý với thực phẩm. Khi đó, chế tài mà pháp luật quy định đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của chính tổ chức, cá nhân và lợi ích chung lâu dài của xã hội. Các chế tài đó không chỉ là biện pháp trừng phạt vi phạm pháp luật bảo đảm ATTP; ngăn ngừa, giáo dục cải tạo chủ thể vi phạm mà còn răn đe chủ thể khác để họ tự giác tuân theo các quy phạm pháp luật, qua đó ngăn ngừa và hạn chế những hành động sai trái tác động đến chất lượng thực phẩm.
Ví dụ, Khoản 1 Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi năm 2009) quy định “Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”; …
3. Pháp luật quy định các tiêu chuẩn bảo đảm ATTP, đồng thời công nhận những thực phẩm đạt chuẩn bảo đảm an toàn
Nhằm đánh giá được mức độ bảo đảm an toàn cho thực phẩm trước khi đến tay người tiêu dùng, pháp luật Việt Nam hiện nay đã đặt ra những tiêu chuẩn nhất định cho thực phẩm và cả quá trình chế biến, phân phối thực phẩm an toàn. Những tiêu chuẩn này thường do Bộ Y tế ban hành và được gọi là các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia ATTP. Cụ thể, những quy chuẩn này quy định cho các vấn đề của thực phẩm an toàn như sau :
-            Nước uống, nước sinh hoạt (ví dụ: Thông tư số 04/2009/TT-BYT ngày 16/06/2009 ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống);
-            Nước đá dùng liền (ví dụ: QCVN 10:2011/BYT – “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với nước đá dùng liền” ngày 13/01/2011);
-            Nước khoáng thiên nhiên, nước uống đóng chai, đồ uống không cồn và đồ uống có cồn  (ví dụ: Thông tư số 45/2010/TT-BYT ngày 22/12/2010 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm đồ uống có cồn);
-            Sữa và các sản phẩm từ sữa (ví dụ: Thông tư số 41/2010/TT-BYT ngày 18/11/2010 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm sữa lên men);
-            Sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ (ví dụ: QCVN 11-4:2012/BYT Quy chuẩn quốc gia đối với sản phẩm dinh dưỡng chế biến từ ngũ cốc cho trẻ từ 6 đến 36 tháng tuổi);
-            Các chất được sử dụng để bổ sung vào thực phẩm (ví dụ: QCVN 3-6:2011/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các chất được sử dụng để bổ sung Iod vào thực phẩm);
-            Thực phẩm bổ sung vi chất dinh dưỡng (ví dụ: Thông tư số 04/2011/TT-BYT ngày 13/01/2011 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với thực phẩm bổ sung vi chất dinh dưỡng);
-            Giới hạn ô nhiễm sinh học và hoá học trong thực phẩm (ví dụ: QCVN 8-2:2011/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm);
-            Phụ gia thực phẩm (ví dụ: QCVN 4-22:2010/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phụ gia thực phẩm – Nhóm chất nhũ hóa);
-            Bao bì, dụng cụ tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm (ví dụ: Thông tư số 34/2011/TT-BYT ngày 30/8/2011 của Bộ Y tế ban hành các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn vệ sinh đối với bao bì, dụng cụ tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm).
Nhờ đặt ra những quy chuẩn này, việc đánh giá mức độ an toàn của thực phẩm trở nên thuận tiện hơn rất nhiều. Cũng từ đó có thể công nhận danh hiệu cho những sản phẩm thực phẩm đạt chuẩn để chúng tạo dựng được niềm tin với người tiêu dùng; đẩy lùi những thực phẩm không rõ nguồn gốc, kém an toàn và có thể gây nguy hại đến sức khoẻ con người.
4. Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo đảm ATTP
Như ta đã biết, tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội đều cần phải có sự quản lý của nhà nước và thực phẩm cũng không là ngoại lệ. Hơn thế, bảo đảm ATTP còn là một hoạt động, nhiệm vụ quan trọng bởi thực phẩm là vấn đề tương đối phức tạp nên rất cần có hệ thống tổ chức quản lý phù hợp, hiệu quả.
Pháp luật Việt Nam hiện nay đã ngày càng thể hiện vai trò to lớn trong việc tạo ra cơ chế hoạt động cho các tổ chức, cơ quan bảo đảm ATTP. Cụ thể, do nhận thấy những bất cập từ việc phân công quản lý theo từng nhóm sản phẩm và quá trình được quy định trong Nghị định 38/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm 2010 do Chính phủ ban hành dẫn đến việc một doanh nghiệp phải chịu sự quản lý của nhiều bộ ngành tạo nên phiền hà, mất nhiều thời gian cũng như công sức của cả doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước; ngày 9 tháng 4 năm 2014, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương đã cùng cho ra đời “Thông tư liên tịch 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT, hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm” nhằm giảm thiểu sự chồng chéo trong công tác quản lý về an toàn thực phẩm. Vì vậy, Thông tư liên tịch 13 đã ra đời theo nguyên tắc “một sản phẩm, một cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ chịu sự quản lý của một cơ quan quản lý nhà nước”.[3]
Việc ban hành các văn bản pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, đảm bảo hoàn thành tốt công tác quản lý Nhà nước đối với bảo đảm ATTP. Nhờ sự phân chia như vậy của pháp luật đã tạo ra sự phối hợp ngày càng nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cơ quan, nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước về ATTP.
III. TỒN TẠI HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ATTP VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CÓ THỂ ĐẶT RA
1. Những tồn tại hạn chế, khó khăn vướng mắc
Bên cạnh những kết quả và thành tựu đã đạt được trong thời gian qua ở lĩnh vực bảo đảm ATTP, pháp luật Việt Nam hiện hành cũng còn rất nhiều những tồn tại hạn chế và khó khăn vướng mắc. Có thể kể đến như :
- Còn quá nhiều các quy định về quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm nói chung và kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại nói riêng gây khó khăn khi áp dụng trên thực tế.
-  Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất và hoạt động thương mại chưa đồng bộ, còn thiếu và chồng chéo.
-  Tính khả thi, cũng như tính ổn định của các văn bản quy phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm còn chưa cao, cần phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn áp dụng. Có những văn bản được các cơ quan chức năng ban hành chỉ trong một thời gian ngắn đã phải sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Do đó, đã gây khó khăn cho các chủ thể sản xuất và kinh doanh thực phẩm, cũng như công tác kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ quan nhà nước.
-  Hiện nay, hệ thống pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất và hoạt động thương mại đang thiếu những quy định chi tiết dẫn đến việc áp dụng của các chủ thể gặp không ít khó khăn.
-  Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn thực phẩm hiện còn thiếu rất nhiều, đặc biệt là đối với những thực phẩm truyền thống (các loại mắm, nem chua, tương...) và một số tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được ban hành trước đây nay cũng đã lạc hậu nhưng lại chưa được sửa đổi. Chính vì sự bất cập đó mà hiện nay nhiều doanh nghiệp thực phẩm vẫn ghi lên nhãn hàng hoá của mình các số liệu khác xa với thực tế sản xuất mà không có một chế tài kiểm soát nào.

2. Những giải pháp có thể đặt ra
Từ những bất cập nêu trên của pháp luật Việt Nam trong việc đảm bảo ATTP, có thể đánh giá được mức độ hoàn thiện của pháp luật hiện hành ở lĩnh vực này. Theo đó, một số giải pháp đã được đưa ra để thực hiện như sau :
Thứ nhất, nên rà soát lại các quy định về kiểm soát vệ sinh ATTP trong sản xuất và hoạt động thương mại.
Thứ hai, có thể sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật nhằm kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả vệ sinh an toàn thực phẩm trong tất cả các quá trình trước khi thực phẩm đến tay người tiêu dùng.
Thứ ba, cần hoàn thiện các quy định nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đảm bảo an toàn thực phẩm.
Thứ tư, tăng cường thêm nguồn lực cho hoạt động xây dựng pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất cũng như hoạt động thương mại.
Thứ năm, tăng cường hơn nữa hợp tác quốc tế tại các cửa khẩu để ngăn chặn sự xâm nhập của dịch bệnh và dịch hại, đồng thời đẩy mạnh việc ký kết các điều ước quốc tế trong lĩnh vực vệ sinh ATTP.
Cuối cùng, pháp luật cần xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về vệ sinh an toàn thực phẩm cho phù hợp hơn với thực tiễn khu vực và thế giới.


[1] Khoản 1, Điều 2 : Giải thích từ ngữ, Luật An toàn thực phẩm, do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 17/06/2010

[2] Điều 1 : Phạm vi điều chỉnh, Luật An toàn thực phẩm, do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 17/06/2010.
[3] Theo bài viết Thông tư liên tịch 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, Trang thông tin điện tử của Viện an toàn thực phẩm, ngày 01/07/2014

Phân tích vai trò của yếu tố giao tiếp đối với sự hình thành, phát triển nhân cách. Liên hệ thực tiễn.

       MỞ ĐẦU

Ngày nay, sự hoàn thiện và tiến bộ về nhân cách đang là một trong những nỗ lực không ngừng nghỉ mà con người dần hướng tới. Để xây dựng và hoàn thiện nhân cách không chỉ là vấn đề của riêng từng cá nhân, mà là nỗ lực của toàn thể xã hội. Có năm yếu tố đóng vai trò trong sự hình thành, phát triển của nhân cách, đó là : di truyền, hoàn cảnh sống, hoạt động, giáo dục và giao tiếp. Trong đó, yếu tố giao tiếp góp phần rất quan trọng, nếu thiếu đi giao tiếp trong xã hội thì chắc chắn con người sẽ rất khó hoàn thiện được nhân cách.
Nhằm mục đích nắm rõ hơn về vai trò của giao tiếp trong thực tiễn cá nhân và đời sống, em xin lựa chọn đề bài “Phân tích vai trò của yếu tố giao tiếp đối với sự hình thành, phát triển nhân cách. Liên hệ thực tiễn” cho phần bài tập học kỳ của mình.
  
NỘI DUNG VẤN ĐỀ

I.    Vai trò của yếu tố giao tiếp đối với sự hình thành, phát triển nhân cách
1.    Một số khái niệm
1.1.       Nhân cách  
Có rất nhiều quan điểm khác nhau từ trước tới nay đã được đưa ra về nhân cách, tuy nhiên, khái quát lại thì có được định nghĩa như sau : nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy.[1]
Nhân cách của con người mang bốn đặc điểm, đó là tính ổn định, tính thống nhất, tính tích cực và tính giao tiếp.
1.2.       Giao tiếp
Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát triển sự tiếp xúc giữa các cá nhân xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động.
Giao tiếp bao giờ cũng mang tính xã hội. Giao tiếp là hiện tượng xã hội. Hoạt động này xác lập và vận hành các quan hệ người – người. Giao tiếp làm nảy sinh quan hệ liên nhân cách và chỉ được thực hiện qua các quan hệ liên nhân cách.[2]
2.    Vai trò của yếu tố giao tiếp đối với sự hình thành, phát triển nhân cách
2.1. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người
Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người. Sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao tiếp trực tiếp hoặc gián tiếp với họ. Chính con người làm xuất hiện, duy trì, phát triển giao tiếp và trở thành sản phẩm của giao tiếp.
Ví dụ: Khi một con người sinh ra được chó sói nuôi, thì người đó sẽ có nhiều lông, không đi thẳng mà đi bằng 4 chân, ăn thịt sống, sẽ sợ người, sống ở trong hang và có những hành động, cách cư xử giống như tập tính của chó sói.
Không thể có xã hội nếu không có giao tiếp, vì xã hội là một cộng đồng người chứ không phải là một dấu cộng đơn giản của nhiều người. Không có nhu cầu giao lưu, không có sự hoạt động tập thể với những mục đích nhất định thì sẽ không có ngôn ngữ, không có lao động. Mỗi cá nhân không thể phát triển bình thường theo kiểu người và không thể trở thành nhân cách nếu không được giao tiếp với những cá nhân khác. Giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất hay có thể nói nhu cầu bẩm sinh của con người. Nếu nhu cầu này không được thoả mãn sẽ gây hậu quả nặng nề (bệnh hospitalism có nghĩa là “bệnh do nằm viện” cũng phát sinh từ nguyên nhân này). Giao tiếp là một nhân tố hay con đường để hình thành và phát triển nhân cách. Nói về tầm quan trọng của vấn đề này, C.Mác viết : “Sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao lưu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp với họ”. Bởi vậy mà có câu ngạn ngữ rằng : “Hãy cho tôi biết bạn của anh là ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào”.
2.2. Giao tiếp giúp con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội
Nhờ giao tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hoá xã hội, chuẩn mực xã hội và “tổng hoà các quan hệ xã hội” thành bản chất con người. Cụ thể hơn, con người học được cách đánh giá hành vi, thái độ, lĩnh hội được các tiêu chuẩn đạo đức một cách trực tiếp từ cuộc sống, kiểm tra và vận dụng những tiêu chuẩn đó vào thực tiễn, dần dần hình thành nguyên tắc đạo đức trong cuộc sống cho riêng mình.
Như vậy, những phẩm chất nhân cách quan trọng như : tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ, tính nguyên tắc, tính trung thực, lòng nhân ái… được hình thành và biểu hiện trong chính quá trình giao tiếp. Thông qua giao tiếp, từ đó con người mới có thể đóng góp năng lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại, đóng góp sức lực và tài năng của mình cho xã hội. Đó chính là việc giao tiếp giúp con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội.
Ví dụ:  Khi gặp người lớn tuổi hơn mình thì phải chào hỏi, phải xưng hô cho đúng mực, phải biết tôn trọng tất cả mọi người, dù họ là ai đi chăng nữa, phải luôn luôn thể hiện mình là người có văn hóa, đạo đức.
2.3. Giao tiếp giúp con người nhận thức được chính bản thân mình
Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân mình như là một nhân cách.
Khi tiếp xúc, con người thấy được cái có ở người khác, tự so sánh, đối chiếu với những việc mình làm, với các chuẩn mực xã hội nên đã thu nhận được các thông tin cần thiết để hình thành sự đánh giá bản thân như một nhân cách, để hình thành một thái độ giá trị - cảm xúc nhất định đối với bản thân… Rõ ràng, qua giao tiếp, con người đã hình thành khả năng tự ý thức. Với sự tự ý thức đó, sự thúc đẩy hành động trong câu nói của người mẹ, cậu bé Pablo Picasso đã trở thành một danh hoạ, một nhân cách lớn của đất nước Tây Ban Nha. Picasso đã từng nói đến sức mạnh của sự tự giao tiếp trong một lời tâm sự rất dung dị : “Mẹ tôi đã nói với tôi : Nếu con đi lính, con sẽ là một vị tướng, nếu con đi tu, con sẽ là giáo hoàng. Thay vì vậy, tôi đã trở thành hoạ sĩ và là danh hoạ Picasso”.
Ví dụ:
• Khi tham gia vào các hoạt động xã hội thì cá nhân nhận thức mình nên làm những gì và không nên làm những việc gì như: nên giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó khăn, tham gia vào các hoạt động tình nguyện, không được tham gia các tệ nạn xã hội, chỉ đươc phép tuyên truyền mọi người về tác hại của chúng đối với bản thân, gia đình và xã hội.
• Hoặc khi tham dự một đám tang thì mọi người ý thức được rằng phải ăn mặc lịch sự, không nên cười đùa. Bên cạnh đó phải tỏ lòng thương tiết đối với người đã khuất và gia đình họ.
2.4. Giao tiếp làm thay đổi hành vi của các chủ thể giao tiếp
a. Cá nhân có khả năng điều chỉnh hành vi của chính mình
Qua giao tiếp, cá nhân biết và hiểu được từ nhận thức đến hành vi của đối tượng giao tiếp. Do vậy, cá nhân cần phải lựa, điều chỉnh hành vi của bản thân (cử chỉ, điệu bộ, hành động) để cho phù hợp với đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, môi trường giao tiếp.
Ví dụ : Khi có chuyện vui và muốn chia sẻ nó với một người bạn, nhưng trong lúc nói chuyện biết được rằng người bạn đó vừa có chuyện buồn, vậy thay vì nói ra câu chuyện vui của mình, chúng ta có thể an ủi nỗi buồn của người bạn đó bằng cách nói những câu chuyện khác.
b. Cá nhân có khả năng điều chỉnh hành vi của người khác
Giao tiếp có thể tác động đến động cơ, mục đích, chương trình và việc ra quyết định của hoạt động con người – quá trình kích thích điều chỉnh lẫn nhau.[3] Trong quá trình giao tiếp, mỗi chủ thể đều có thể tiếp nhận thông tin từ chủ thể còn lại, qua đó những động cơ, mục đích ban đầu của chủ thể đó có thể thay đổi, tạo ra những quyết định và hành vi mới.  
Ví dụ : Một người bạn của bạn đang vô cùng tức giận và không kiểm soát được mình, nếu bạn giỏi giao tiếp và có khả năng khuyên giải người khác, sau khi người đó nói chuyện với bạn, chắc hẳn sẽ vượt qua được cơn tức giận và trở nên bình tĩnh hơn.
II. Liên hệ thực tiễn
1.    Đối với con người trong xã hội
Mỗi thời đại, mỗi đất nước đều có những chuẩn mực nhân cách của riêng mình và sự tác động của yếu tố giao tiếp liên quan đến sự hình thành và phát triển của nhân cách cũng không giống nhau. Tuy nhiên, thời đại nào, đất nước nào cũng có những vĩ nhân, những nhân cách lớn. Nhân loại xưa thường tự hào vì có nhà bác học Đácuyn với câu nói nổi tiếng : “Bác học không có nghĩa là ngừng học”. Nhân dân Việt Nam tự hào vì có lãnh tụ Hồ Chí Minh – một nhân cách lớn. Thế hệ trẻ nước ta hôm nay ngưỡng mộ Trương Đình Tuyển – một con người một vóc dáng nhưng lại có công vô cùng lớn trong việc đưa nước ta chuyển mình hội nhập với nền kinh tế thế giới, gia nhập WTO… Những con người ấy là những nhân cách điển hình, được mọi người biết đến. Cuộc sống đời thường con biết bao nhân cách tốt đẹp đang ẩn giấu mà chúng ta còn chưa biết đến. Việc nhận thức được vai trò của các yếu tố, đặc biệt là yếu tố giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách là vô cùng cần thiết, nhất là với thế hệ trẻ, những con người mong muốn vươn tới sự hoàn thiện của nhân cách.
Từ việc hiểu biết về nhân cách, về vai trò của yếu tố giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, kết hợp với những kiến thức về thực tế đời sống – xã hội, chúng ta có thể liên hệ với bản thân và xác định phương hướng phát triển phù hợp cho mình.
Chúng ta đang sống trong một môi trường xã hội vô cùng năng động, trong một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, có rất nhiều điều kiện thuận lợi để thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Hoàn cảnh xã hội như thế rất cần những nhân cách có đủ đức và tài để đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Bác Hồ cũng từng dạy : “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”. Vì thế, một nhân cách muốn hoàn thiện phải có đủ “tài” và “đức”. Để đạt được điều ấy cần có sự tác động vào các yếu tố hình thành và phát triển nhân cách một cách thích hợp.
Ngày nay, giao tiếp là một trong những công cụ không thể thiếu của cá nhân, xã hội. Trong công việc, lao động cũng như đời sống hàng ngày, giao tiếp là sợi dây liên kết giữa người với người. Giao tiếp cùng các yếu tố khác tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ nhau giúp con người hình thành và phát triển nhân cách. Tăng cường xây dựng, rèn luyện kỹ năng giao tiếp là điều không thể thiếu.
Chúng ta cần tích cực tham gia vào các mối quan hệ xã hội, tìm hiểu các kiến thức về xã hội để xác định được những yêu cầu chuẩn mực của thời đại mới, từ đó có sự rèn luyện bản thân theo hướng đáp ứng một cách tốt nhất những yêu cầu đó. Đồng thời, cống hiến hết những khả năng mình có được cho xã hội là điều vô cùng quan trọng, nói như Tố Hữu thì bởi “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. 
Tích cực giao tiếp với mọi người, ở mọi lúc, mọi nơi là một việc vô cùng cần thiết. Điều này sẽ tạo nên mối quan hệ rộng lớn, thu thập thêm nhiều kiến thức lịch sử - xã hội, có thêm được nhiều kinh nghiệm sống cho mỗi cá nhân, giúp nhân cách được hoàn thiện.
Quan trọng là chúng ta, mỗi cá nhân phải luôn luôn tự nhìn nhận lại bản thân mình, đánh giá đúng sai những việc đã làm, vạch ra mục đích cần vươn tới. Đồng thời phải luôn nghiêm khắc với chính mình, nhìn nhận, đánh giá cuộc sống để giảm bớt những hành vi sai lệch. Cố gắng trong khả năng của mình, nếu có thể thì hãy thay đổi hành vi sai lệch của người khác mà mình biết chắc chắn rằng điều đó là không đúng.
2.    Đối với sinh viên ngành Luật
Rèn luyện nhân cách là điều tất yếu với mọi cá nhân nói chung và với sinh viên nói riêng, đặc biệt với sinh viên ngành Luật. Là sinh viên theo học lĩnh vực pháp lý thì việc hiểu được trách nhiệm nghề nghiệp, lương tâm, đạo đức nghề nghiệp là điều rất quan trọng.
Trong môi trường ngành Luật này, thường xuyên học tập với hình thức làm việc nhóm, thảo luận, thuyết trình, vì vậy nâng cao khả năng giao tiếp là yếu tố thiết yếu. Qua quá trình giao tiếp liên tục, mỗi sinh viên nên tự tìm ra cho mình những ưu, khuyết điểm để tiếp tục phát huy hoặc khắc phục, hoàn thiện chính bản thân để phù hợp với môi trường làm việc sau này.
Tăng cường giao tiếp nên được thực hiện liên tục nhưng phải đúng thời điểm, đúng nơi, đúng lúc. Thêm vào đó, việc tiếp thu tối đa bài giảng trên lớp và qua bạn bè, tự tìm tòi học tập trên thư viện, tham gia ngoại khoá, câu lạc bộ… cũng đều là các hoạt động cần thiết. Trao đổi với bạn bè, xin tư vấn trực tiếp thêm ở thầy cô một cách chủ động cũng đều là những giao tiếp mà sinh viên ngành Luật rất nên thực hiện. Như vậy, mỗi sinh viên đã và đang tạo nên môi trường học tập và rèn luyện tốt nhất cho chính mình.
  
KẾT LUẬN

Vấn đề về nhân cách luôn vô cùng phức tạp và khó lý giải từ trước tới nay. Nhưng nó lại hiện diện quanh chúng ta hàng ngày hàng giờ. Chính bản thân mỗi người chúng ta cũng là một nhân cách. Việc làm thế nào để có một nhân cách tốt phù hợp với những yêu cầu chuẩn mực xã hội luôn là một vấn đề lớn. Nó đòi hỏi ở mỗi cá nhân sự rèn luyện, phấn đấu liên tục, kiên trì không mệt mỏi. Là thế hệ trẻ của một thời đại mới, là những chủ nhân của một đất nước đang chuyển mình hội nhập, chúng ta rất cần suy nghĩ về bổn phận và trách nhiệm của mình. Một đất nước chỉ có thể phát triển bền vững khi đất nước đó được xây dựng trên số đông là nhân cách tốt, là những con người có đủ tài và đức. Vì vậy, nắm rõ vai trò của các yếu tố, đặc biệt là yếu tố giao tiếp đối với sự hình thành, phát triển nhân cách là rất quan trọng, là điều ai cũng cần phải làm.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.    Giáo trình Tâm lý học đại cương, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, năm 2014.
2.    Bài viết Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, truy cập ngày 30/03/2016.
3.   Bài viết Vai trò của hoạt động và giao tiếp đối với sự hình thành, phát triển tâm lý, nhân cách cá nhân, truy cập ngày 07/04/2016.
4.   Từ khoá Giao tiếp, truy cập ngày 30/03/2016.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giao_tiếp
5.   Bài viết Đánh giá vai trò của giao tiếp đối với con người, truy cập ngày 31/03/2016.



[1] Giáo trình Tâm lý học đại cương, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, năm 2014, trang 179.
[2] Giáo trình Tâm lý học đại cương, Trường Đại học Luật Hà Nội , NXB Công an nhân dân, năm 2014, trang 230.
[3] Giáo trình Tâm lý học đại cương, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, năm 2014, trang 230.