I. KHÁI
QUÁT CHUNG VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM VÀ PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM AN TOÀN THỰC PHẨM Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng
con người[1]. Từ đây, có thể hiểu
theo nghĩa hẹp đó là việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng
những phương pháp phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra. An toàn
thực phẩm cũng bao gồm các quy trình, quy định áp dụng trong từng khâu chế biến
cần được thực hiện để tránh các nguy cơ sức khỏe có tiềm năng nghiêm trọng. Hiểu
theo nghĩa rộng, đảm bảo an toàn thực phẩm là toàn bộ những vấn đề cần xử lý
liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm bảo cho sức khỏe
của người tiêu dùng. Đây là một vấn đề và nguy cơ rất lớn mà rất nhiều
quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt.
Về pháp luật bảo đảm ATTP ở Việt Nam, đó là một bộ phận trong hệ
thống pháp luật hiện hành của nước ta, bao gồm các QPPL do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận, tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền và nghĩa vụ của tổ
chức, cá nhân trong bảo đảm an toàn thực phẩm; điều kiện bảo đảm an toàn đối với
thực phẩm, sản xuất, kinh doanh thực phẩm và nhập khẩu, xuất khẩu thực phẩm; quảng
cáo, ghi nhãn thực phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm; phân tích nguy cơ đối với ATTP;
phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố về ATTP; thông tin, giáo dục, truyền
thông về ATTP; trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP[2]. Nguồn chính của pháp luật bảo đảm ATTP đều là các văn bản QPPL
do nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục nhất định.
Trong
pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề bảo đảm an toàn thực phẩm, tiêu biểu phải
kể đến Luật an toàn thực phẩm do Quốc hội ban hành năm 2010 gồm 11 chương và 70
điều quy định một cách toàn diện về vấn đề an toàn thực phẩm. Cùng với đó là
các văn bản QPPL do Chính phủ và các bộ ngành ban hành như : Nghị định số
38/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm
năm 2010; Thông tư liên tịch số 13/2014/TLT-BYT-BNNPTNT-BCT hướng dẫn việc phân
công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm …
II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC BẢO
ĐẢM AN TOÀN THỰC PHẨM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hệ thống pháp luật đã bảo đảm ATTP bằng việc
thể chế hóa các chính sách, kế hoạch của Đảng, nhà nước trong công tác bảo đảm
ATTP và quy định các phương tiện, biện pháp, nhân lực,... để đảm bảo thực hiện
các chính sách, kế hoạch đó. Chính vì thế, pháp luật trong việc bảo đảm ATTP đã
trở thành một công cụ hữu hiệu để quản lý lĩnh vực này. Đặc biệt, thời gian qua
pháp luật về bảo đảm ATTP ở nước ta đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện,
góp phần điểu chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực thực phẩm. Nhìn
chung có thể đánh giá vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm ATTP ở Việt Nam
hiện nay qua những
mặt như sau.
1.
Pháp luật quy định các quy tắc xử sự chung cho mọi người trong những hoạt động ở
lĩnh vực thực phẩm
Về mặt này, pháp luật điều
chỉnh khá đầy đủ những hành vi, hoạt động liên quan đến điều kiện đảm bảo ATTP;
điều kiện đảm bảo chất lượng trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm; xuất – nhập
khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn sản phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm, phân tích
nguy cơ đối với ATTP, phòng ngừa ngăn chặn và khắc phục sự cố về ATTP; đưa ra
những hành vi bị cấm.
Ví dụ trong Luật an toàn
thực phẩm năm 2010 đã có những quy định như : Khoản 1 Điều 10 về điều kiện
chung để đảm bảo an toàn đối với thực phẩm là
“đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về giới hạn vi sinh vật
gây bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng thuốc thú y, kim loại nặng,
tác nhân gây ô nhiễm và các chất khác trong thực phẩm có thể gây hại đến sức khỏe,
tính mạng con người”; Điều 43 quy định về Quảng cáo thực phẩm
là “Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ trưởng
Bộ Công Thương quy định cụ thể loại thực phẩm phải đăng ký quảng cáo, thẩm quyền,
trình tự, thủ tục xác nhận nội dung quảng cáo thực phẩm thuộc lĩnh vực được
phân công quản lý”; Điều 5 quy định những hành vi bị nghiêm cấm trong việc bảo
đảm an toàn thực phẩm; …
2. Pháp luật quy định các chế tài ràng buộc con người thực
hiện những yêu cầu của pháp luật để đảm bảo ATTP
Trong thực tế các chủ thể
khi tham gia hoạt động kinh doanh, sản xuất thực phẩm thường chỉ chú ý tới lợi
ích của mình mà bỏ qua lợi ích của người khác, của chung cộng đồng, bỏ qua hoặc
không tự giác thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm phải thực hiện với việc bảo đảm
ATTP. Chẳng hạn, khi thực hiện nghĩa vụ đánh giá thực phẩm tiêu chuẩn, các chủ
sản xuất kinh doanh thường không thấy trước được lợi ích của mình do đó luôn
tìm cách lẩn tránh nghĩa vụ pháp lý với thực phẩm. Khi đó, chế tài mà pháp luật
quy định đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của chính tổ chức,
cá nhân và lợi ích chung lâu dài của xã hội. Các chế tài đó không chỉ là biện
pháp trừng phạt vi phạm pháp luật bảo đảm ATTP; ngăn ngừa, giáo dục cải tạo chủ
thể vi phạm mà còn răn đe chủ thể khác để họ tự giác tuân theo các quy phạm
pháp luật, qua đó ngăn ngừa và hạn chế những hành động sai trái tác động đến chất
lượng thực phẩm.
Ví dụ, Khoản 1 Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa
đổi năm 2009) quy định “Người nào sản xuất, buôn
bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thì bị
phạt tù từ hai năm đến bảy năm”; …
3. Pháp luật quy định các tiêu chuẩn bảo
đảm ATTP, đồng thời công nhận những thực phẩm đạt chuẩn bảo đảm an toàn
Nhằm đánh giá được mức độ bảo đảm an
toàn cho thực phẩm trước khi đến tay người tiêu dùng, pháp luật Việt Nam hiện
nay đã đặt ra những tiêu chuẩn nhất định cho thực phẩm và cả quá trình chế biến,
phân phối thực phẩm an toàn. Những tiêu chuẩn này thường do Bộ Y tế ban hành và
được gọi là các quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia ATTP. Cụ thể, những quy chuẩn này quy định cho các vấn đề của thực phẩm
an toàn như sau :
-
Nước uống,
nước sinh hoạt (ví dụ: Thông tư số 04/2009/TT-BYT ngày 16/06/2009 ban hành Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống);
-
Nước đá
dùng liền (ví dụ: QCVN
10:2011/BYT – “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với nước đá dùng liền” ngày
13/01/2011);
-
Nước khoáng thiên nhiên, nước uống
đóng chai, đồ uống không cồn và đồ uống có cồn (ví dụ: Thông tư số 45/2010/TT-BYT ngày
22/12/2010 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm đồ uống có
cồn);
-
Sữa và các sản phẩm từ sữa (ví dụ:
Thông tư số 41/2010/TT-BYT ngày 18/11/2010 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
đối với các sản phẩm sữa lên men);
-
Sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ (ví dụ:
QCVN 11-4:2012/BYT Quy chuẩn quốc gia đối với sản phẩm dinh dưỡng chế biến từ
ngũ cốc cho trẻ từ 6 đến 36 tháng tuổi);
-
Các chất được sử dụng để bổ sung vào
thực phẩm (ví dụ: QCVN 3-6:2011/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các chất được
sử dụng để bổ sung Iod vào thực phẩm);
-
Thực phẩm bổ sung vi chất dinh dưỡng
(ví dụ: Thông tư số 04/2011/TT-BYT ngày 13/01/2011 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia đối với thực phẩm bổ sung vi chất dinh dưỡng);
-
Giới hạn ô nhiễm sinh học và hoá học
trong thực phẩm (ví dụ: QCVN 8-2:2011/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với
giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm);
-
Phụ gia thực phẩm (ví dụ: QCVN
4-22:2010/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phụ gia thực phẩm – Nhóm chất nhũ
hóa);
-
Bao bì, dụng cụ tiếp xúc trực tiếp với
thực phẩm (ví dụ: Thông tư số 34/2011/TT-BYT ngày 30/8/2011 của Bộ Y tế ban
hành các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn vệ sinh đối với bao bì, dụng cụ
tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm).
Nhờ
đặt ra những quy chuẩn này, việc đánh giá mức độ an toàn của thực phẩm trở nên
thuận tiện hơn rất nhiều. Cũng từ đó có thể công nhận danh hiệu cho những sản
phẩm thực phẩm đạt chuẩn để chúng tạo dựng được niềm tin với người tiêu dùng; đẩy
lùi những thực phẩm không rõ nguồn gốc, kém an toàn và có thể gây nguy hại đến
sức khoẻ con người.
4. Pháp luật quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo đảm
ATTP
Như ta đã biết, tất cả các lĩnh vực đời sống
xã hội đều cần phải có sự quản lý của nhà nước và thực phẩm cũng không là ngoại
lệ. Hơn thế, bảo đảm ATTP còn là một hoạt động, nhiệm vụ quan trọng bởi thực phẩm
là vấn đề tương đối phức tạp nên rất cần có hệ thống tổ chức quản lý phù hợp,
hiệu quả.
Pháp luật Việt Nam hiện nay đã ngày càng thể
hiện vai trò to lớn trong việc tạo ra cơ chế hoạt động cho các tổ chức, cơ quan
bảo đảm ATTP. Cụ thể, do
nhận thấy những bất cập từ việc phân công quản lý theo từng nhóm sản phẩm và
quá trình được quy định trong Nghị định 38/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật An toàn thực phẩm 2010 do Chính phủ ban hành dẫn đến việc một doanh nghiệp phải chịu sự quản lý của
nhiều bộ ngành tạo nên phiền hà, mất nhiều thời gian cũng như công sức của cả
doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước; ngày 9 tháng 4 năm 2014, Bộ Y tế, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương đã cùng cho ra đời “Thông tư
liên tịch 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT, hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong
quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm” nhằm giảm
thiểu sự chồng chéo trong công tác quản lý về an toàn thực phẩm. Vì vậy, Thông tư liên tịch 13 đã ra đời theo nguyên tắc “một sản phẩm, một cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ chịu sự quản lý của một
cơ quan quản lý nhà nước”.[3]
Việc ban hành các văn bản pháp luật tạo ra cơ
sở pháp lý để các cơ quan nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của mình, đảm bảo hoàn thành tốt công tác quản lý Nhà nước đối với bảo đảm ATTP.
Nhờ sự phân chia như vậy của pháp luật đã tạo ra sự phối hợp ngày càng nhịp
nhàng, đồng bộ giữa các cơ quan, nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước về ATTP.
III. TỒN TẠI HẠN CHẾ, KHÓ
KHĂN VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ATTP VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CÓ
THỂ ĐẶT RA
1. Những tồn tại hạn chế, khó khăn vướng mắc
Bên cạnh những kết quả và thành tựu đã
đạt được trong thời gian qua ở lĩnh vực bảo đảm ATTP, pháp luật Việt Nam hiện
hành cũng còn rất nhiều những tồn tại hạn chế và khó khăn vướng mắc. Có thể kể
đến như :
- Còn quá nhiều các quy định về quản lý chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm nói chung và kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động
thương mại nói riêng gây khó khăn khi áp dụng trên thực tế.
- Hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất và hoạt
động thương mại chưa đồng bộ, còn thiếu và chồng chéo.
- Tính khả thi, cũng như
tính ổn định của các văn bản quy phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm
còn chưa cao, cần phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn áp dụng. Có những
văn bản được các cơ quan chức năng ban hành chỉ trong một thời gian ngắn đã phải
sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Do đó, đã gây khó khăn cho các chủ thể sản xuất
và kinh doanh thực phẩm, cũng như công tác kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm
của các cơ quan nhà nước.
- Hiện nay, hệ thống pháp
luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất và hoạt động thương
mại đang thiếu những quy định chi tiết dẫn đến việc áp dụng của các chủ thể gặp
không ít khó khăn.
- Các tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật về an toàn thực phẩm hiện còn thiếu rất nhiều, đặc biệt là đối với những
thực phẩm truyền thống (các loại mắm, nem chua, tương...) và một số tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật được ban hành trước đây nay cũng đã lạc hậu nhưng lại chưa
được sửa đổi. Chính vì sự bất cập đó mà hiện nay nhiều doanh nghiệp thực phẩm vẫn
ghi lên nhãn hàng hoá của mình các số liệu khác xa với thực tế sản xuất mà
không có một chế tài kiểm soát nào.
2.
Những giải pháp có thể đặt ra
Từ những bất cập nêu trên của pháp luật
Việt Nam trong việc đảm bảo ATTP, có thể đánh giá được mức độ hoàn thiện của
pháp luật hiện hành ở lĩnh vực này. Theo đó, một số giải pháp đã được đưa ra để
thực hiện như sau :
Thứ
nhất, nên rà soát lại các quy định về kiểm soát vệ sinh ATTP trong sản xuất và
hoạt động thương mại.
Thứ
hai, có thể sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật nhằm kiểm soát chặt chẽ và hiệu
quả vệ sinh an toàn thực phẩm trong tất cả các quá trình trước khi thực phẩm đến
tay người tiêu dùng.
Thứ ba, cần
hoàn thiện các quy định nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đảm bảo an
toàn thực phẩm.
Thứ tư, tăng
cường thêm nguồn lực cho hoạt động xây dựng pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn
thực phẩm trong sản xuất cũng như hoạt động thương mại.
Thứ năm, tăng
cường hơn nữa hợp tác quốc tế tại
các cửa khẩu để ngăn chặn sự xâm nhập của dịch bệnh và dịch hại, đồng thời đẩy
mạnh việc ký kết các điều ước quốc tế trong lĩnh vực vệ sinh ATTP.
Cuối cùng,
pháp luật cần xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về vệ sinh an toàn thực
phẩm cho phù hợp hơn với thực tiễn khu vực và thế giới.
[1] Khoản 1, Điều 2 : Giải thích từ ngữ, Luật An toàn thực phẩm, do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ban hành ngày 17/06/2010
[2] Điều 1 : Phạm vi điều chỉnh, Luật An toàn thực phẩm, do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ban hành ngày 17/06/2010.
[3] Theo bài viết Thông tư liên tịch
13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm,
Trang thông tin điện tử của Viện an toàn thực phẩm, ngày 01/07/2014